Nhãn:

Bí Ẩn Mãi Mãi Là Bí Ẩn



Part 1 :Thời gian không gian đa tầng nguyên


Ngày 28/8/1915, trong chiến dịch Garribarri ( ở Thổ Nhĩ Kỳ ) thời Thế chiến thứ nhất, một đôi quân Anh khoảng hơn 800 binh lính đã tấn công Thổ Nhĩ Kỳ, vừa lúc, trên bầu trời đổ bộ ngay quân Thổ đóng bị một lớp mây to che lấp. Và khi quân Anh tiến vào trại của các quân Thổ bị lớp mây khổng lồ kia bao vây, rồi chẳng có một người lính Anh nào sống sót thoát ra ngoài cả. Khoảng một giờ đồng hồ sau, đám mây bay lên bầu trời cao; và kì lạ thay, hơn 800 quân Anh cũng biến mất một cách thần bí.

Một số nhà khoa học mạnh dạn suy đoán rằng đã có một hệ thời gian không gian khác hẳn hệ của loài người chúng ta đang vận hành; hệ thời gian không gian dị tầng nguyên.


Sau khi chiến tranh kết thúc, Ạnh yêu cầu Thổ Nhĩ Kỳ trao trả tù binh, nhưng bên Thổ Nhĩ Kỳ khăng khăng bảo rằng chưa bao giờ trông thấy những tù binh lính Anh như thế cả.

Một số nhà khoa học nhận định rằng, rất có thể vũ trụ chúng ta được cấu tạo bởi hệ thời gian không gian đa tầng nguyên, điều đó có nghĩa là cùng tồn tại song song với hệ thời gian của loài người. Còn có các hệ thời gian không gian khác, chẳng hạn như hệ thời gian không gian đường hầm. Rất có thể số lính Anh đã thông qu hệ thời gian không gian đường hầm để đi vào hệ thời gian không gian dị tầng nguyên.

Hiện nay, những giả thiết về hệ thời gian không gian dị tầng nguyên cũng chỉ mơi ở giai đoạn sơ khởi, hầu như chưa có bằng chứng gì ủng hộ cho giả thuyếy này cả. Tuy nhiên, nó đã thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà khoa học trên thế giới.

Đúng vào ngày lễ phục sinh năm 1722, nhà hàng hải người Hà Lan Jakob Roggever đã phát hiên ra hòn đảo này nên người ta gọi nó là đảo Phục Sinh ( Pâques). Đao này nằm lẻ loi ở Nam Thái Bình Dương, có diện tích là 179 km vuông.

Ở mọi góc của hòn đảo này, chúng ta đêu dễ dàng thấy vô số các bức tượng vĩ đại đứng sừng sững. Các bức tượng này có kích thước khác nhau, có bức cao gần 230m, nặng 80 tấn. Đa số là tượng đầu, có bức còn có cả nón, mỗi chiếc nón "đá" nhũ vậy nặng khoảng 10 tấn, đồng thời các nhà khảo sát còn phát hiện ra rằng loại đá dùng điêu khắc nón khác hoàn toàn với loại dùng điêu khắc đầu. Người ta còn phát hiện rải rác trên đảo còn có những tảng đá to nặng hàng chục ngàn tấn, và cả các loại đá lửa rắn chắc như săt thép, dường như chúng đang chuẩn bị được điêu khắc thành những bức tượng khác.



Các bức tượng vĩ đại ở đảo Pâques( đảo Phục Sinh)


Khi người Hà Lan đổ bộ lên hòn đảo này, họ đã phát hiện nhiều mảnh gỗ, trên đó có khắc những văn tự kỳ lạ, nay có khoảng 10 mảnh được trưng bày ở các viện bảo tàng trên khắp thế giới. Nhưng chưa một ai có thể giải mã được các văn tự trên những mảnh gỗ đó.

Một nhà khoa học cổ học tại Na Uy sai khi xem xét kỹ lưỡng các bưc tượng đã tiên đoán về niên đại của một số than củi vào khoảng 400 năm TCN. Ngoài ra, khi đến khảo sát khu vực khai thác đá và vùng lân cận miệng núi lửa, ông đã phát hiện vô số mẫu điên khắc đang dở dang và còn cả hàng trăm ngàn công cụ điêu khắc đơn sơ như búa, đục,... Như vậy từ những chi tiết này chúng ta có thể khẳng định rằng công trình điêu khắc này đã phải dừng lại hết sức đột ngột.

Một nhà khảo cổ đã viết một bản báo cáo kết quả nghiên cứu, trong đó ông nhấn mạnh: "Chúng ta có thể khẳng định một điều rằng, những bức tượng trên ddaro không phải là di sản và tác phẩm của thổ dân trên đảo..."

Hơn thế nữa người ta còn phát hiện một hiện tượng kỳ lạ sau: mặc dù hòn đảo này cách rất xa lục địa và các nền văn minh thế giới, nhưng cư dân trên đảo đảo lại có một sự hiểu biết về các vì sao đầy đủ và toàn diện hơn ai hết. Vậy thì ai đã sinh sống trên hòn đảo này được hình thành từ các hòn đá lửa rất nhỏ bé, hoang vắng đến không có lấy một bóng cây này? Ai, khi nào, và bằng cách nào họ đã đục thành công những bức tượng khổng lồ này? Và mụn đích của họ là gì?





Các bức tượng trên đảo Phục Sinh, bức tượng nào cũng mang một thái độ uy nghiêm, trang trọng, chưa ai giải thích được họ là ai, có địa vị ra sao.
Lịc sử nhân loại chắc chắn có mối quan hệ mật thiết với các tảng đá mang hình hài bi kịch này và chắc chắn có mối liên hệ với nền văn hóa hóa thạch khổng lồ.

Part 2 : NHỮNG VỤ MẤT TÍCH TRONG LỊCH SỬ



Chính những nền văn hóa đã có thời kì phát triển hết sức huy hoàng rực rỡ bỗng chốc đột nhiên biến mất không để lại mảy may dấu vết gì hay bị đại dương dìm xuống tận đáy sâu đã ám ảnh cuộc sống loài người chúng ta. Và những hiện tượng này đã làm ta mãi khiếp sợ, hoang mang.

đây là hình ảnh Châu Phi  bị cơn đói do hạn hán kéo dài hoành hành. Họ nằm đó, thở thoi thóp; người thân của họ chỉ có thể đúng đó nhìn, đau đớn chờ tiễn họ vào cõi chết.
Nỗi hoang mang về cái ngày tận thế đã khiến mọi người nghĩ đến vấn đề đại nan và sự hủy diệt. Quả thật, có một thực tế mà chúng ta không thể nào chối cãi, đó là: Một khi đại nạn ập đến, trước sức mạnh vô cùng của thiên nhiên, con người chúng ta cố gắng cách mấy cũng đành bó tay đầu hàng, chính sức tàn phá ghê gớm và không lường trước được của những cơn dịch nạn đã trở thành nỗi ám ảnh dai dẳng của tâm hồn con người. Nỗi ám ảnh này bắt nguồn từ những vụ mất tích khó hiểu của các nền văn hóa từng một thời phát triển rực rỡ huy hoàng.

Part 3 :Vụ nổ ở TUNGUSKA



7 giờ 17 phút sáng ngày 30/6/1908, ở vùng Tunguska, thuộc Sibia, Nga, xảy ra một vụ nổ kinh hoàng trên không, cách mặt đất 8.000m. Năm giờ sau vụ nổ, những đợt chấn động mạnh dưới lòng đất làm ảnh hưởng đến vùng Bắc Hải, và làm chấn động tất cả các đài khí tượng ở nước Anh. Thậm chí trung tâm đo đạc ở Úc cũng bị ảnh hưởng nặng nề Hậu quả sau vụ nổ khủng khiếp đó là toàn bộ cây xanh trong chu vi 18 km tại nơi xảy ra vụ nổ bị thiêu rụi hoàn toàn; ngoài ra số cây cối khác trong phạm vi 60 km vuông đều bị gãy đôi. Người ta còn phát hiện các tòa nhà cách nơi xảy ra vụ nổ đến 900 km xuất hiện vết nứt, có rất nhiều nhà xưởng bị sụp đổ. Toàn bộ số động vật sinh sống trong vòng đai "Đông thổ" ( vùng bị đóng băng vĩnh cửu) cách nơi xảy ra vụ nổ 100km đều bị hùy diệt, Theo ước tính, sức công phá của vụ nổ này tương đương sức công phá của 28.000.000 tấn bom nguyên tử, hơn nữa tốc độ di chuyển của nó lên đến 4.000m/giây. Điều này cho thấy, vụ nổ ở Tunguska ghê gớm biết chừng nào.

19 năm sau vụ nổ, khoa học gia Liên Xô Siulik đã dẫn đầu một đoàn khảo sát lần đầu tiên đến tìm hiểu vùng đất Tunguska, khi phát hiện vùng đầm lầy ở đây vị lỗ chỗ những hố đất to đến gợn người, họ cứ ngỡ rằng đã có một thiên thạch rơi xuống đây mới phải. Nhưng, cho đến nay, khi mà chúng ta đã áp dụng rất nhiều biện pháp dò tìm tiên tiến nhất, kể cả việc dùng đến loại máy thăm dò lòng đất khổng lồ nhất, thậm chí sử dụng đến cả những thiết bị tinh vi và chính xác nhất cũng không tài nào tìm ra bất cứ một mảnh vở của thiên thạch, hoặc mảnh vỡ của các kim loại... để chứng minh giả thiết của đờn khảo sát người Liên Xô trên là đúng.


Từ năm 1961 đến năm 1963, một nhà khoa học Liên Xô khác tên là Zolotmotov đã dẫn đầu hai nhóm đi khảo sát, cuối cùng ông đưa ra một giả thiết rằng: Có lẽ đây là vết tích của một vụ va chạm giữa một ngôi sao chỗi hạng trung vào Trái Đất. Tuy nhiên, khi sao chổi nổ tung thì nhân của sao chổi bị đốt cháy hoàn toàn ở độ cao khoảng hơn 100 mét, nặng khoảng 5.000.00 tấn vì vậy không lí do gì chúng ta tìm thấy được bất kỳ một mảnh vở nào của sao chổi.

Vào năm 1971, tại quần đảo Nam Thái Bình Dương, Pháp đã cho tiến hành cuộc thử nghiệm hạt nhân; kết quả là một màn mây hình nấm khổng lồ đã bao quanh bầu trời vùng Thái Bình Dương. 

Ngoài ra cũng có rất nhiều người cho rằng đây là vụ nổ hạt nhân. Từ năm 1957, một nhóm khảo sát nhỏ đã kiểm tra mẫu đất và thực vật ở Tunguska và phát hiện rằng độ phát xạ của vùng đất này cao hơn một lần rưỡi so với nơi cách Tunguska 30- 40 ngàn mét. Còn các loài thửc vật sau khi qua khâu hóa nghiệm đã cho ra kết luận: vòng sinh trưởng của chúng xuất hiện dấy vết bức xạ của một lớp bụi đất mang tính phát xạ cao. Thế nhưng, vào thời điểm 1908 chưa có một quốc gia nào có nguồn năng lượng hạt nhân khổng lồ như thế. Vậy thì loại năng lượng hạt nhân này đến từ đâu?

Sau này, chúng ta có khá nhiều giả thiết giải thích cho hiện tượgn này. Giả thiết quả cầu tuyết; giả thiết các mảnh vụn của đối vật chất ( anti-material) va nhau; giả thiết lỗ đen va nhau; giả thiết về văn minh của một loài người ngoài Trái Đất...

Cho đên cuối những năm 90 của thế kỉ 20, ít nhất các nhà khoa học đã lần lượt đưa ra hàng loạt giả thiết. Nhưng chưa có một giả thiêt nào có thể hoàn toàn thuyết phục được chúng ta.

Part 4 : Kim Tử Tháp Ai Cập




Quần thể Kim Tử Tháp Ai Cập
Kim Tử Tháp Ai Cập là những mộ thất nơi các vua chúa Ai Cập yên nghỉ ngàn thu. Đến nay đã phát hiên có khoảng 80 ngôi mộ, trong đó Kim Tử Tháp nổi tiếng nhất chính là Kim Tử Tháp của Khufu (Cheops). Đáy các cạnh dài 230 m( nay còn 227m), nguyên chiều cao của tháp là 146,5m (nay còn 137m), góc đáy của tháp là 51 độ 51', chiếm diện tích khoảng 52.900 m vuông. Tháp được xây bằng 2.300.000 tảng đá.

Cách thiết kế và kiến tạo của Kim Tử Tháp có liên quan rất nhiều đến số học, hình học, địa lý học và thiên văn học, thậm chí chúng ta phải công nhận rằng nền văn minh khoa học thời đó đã vượt hẳn trình độ chúng ta hiện nay. Các Kim Tử Tháp được xây nên từ thế kỷ 27 TCN xa xưa, lúc đó người Ai Cập chỉ mới biết phuơng trình Thales và họ hoàn toàn không biết tính chất góc buông trong tam giác vuông, nói chi đến giản lược của các phân số. Và hơn thế nữa, vào thời đó, các công cụ bằng sắt, thuốc nổ, bánh xe, trục quay tời vẫn chưa được phát minh. Trong điều kiện thiếu thốn và kém phát triển như vậy, lẽ ra họ không thể nào có các công trình kỹ thuật tuyệt đỉnh hoặc tinh xảo được, thế mà họ đã tính toán chính xác đến mức sai số ở chiều dài cạnh các Kim Tử Tháp chưa đến 20cm, còn sai số của chiều cao góc đông nam với góc tây bắc chỉ dao động 1.27cm. Nếu căn cứ trên điều kiện làm việc lúc bấy giờ, các nhà khoa học đã tính ra rằng ít nhất phải có khoảng 10 triệu người làm việc cật lực trong 10 năm. Cũng nên biết rằng dân số toàn thế giới lúc đó chỉ có 20 triệu mà thôi. Ngoài ra, kết cấu của các Kim Tử Tháp hết sức hợp lý, chính vì vậy mà dù trải qua hàng trăm ngàn năm với biết bao biến cố: lũ lụt, động đất, thiên tai mà các Kim Tử Tháp vẫn đứng uy nghi sừng sững không hề bị biến dạng.


Đây là đương thông qua mộ Pharaon trong lòng Kim Tử Tháp 

Mỗi Kim Tử Tháo đều được sắp xếp theo vị trí của một ngôi sao nào đó; chẳng hạn như Kim Tử Tháp Khufu có bình phương chiều cao vừa bằng diện tích tam giác của mỗi mặt tháp; nếu ta lấy chiều dài tổng cộng của 4 cạnh đáy chia cho 2 lần chiều cao sẽ được 3.14 tương đương giá trị của số pi, và nếu ta lấy chiều cao nhân cho 1 tỷ thì tương đương khoảng cách từ Mặt Trời đến Trái Đất; ngoài ra trọng tâm của tháp rơi ngay trung tâm hấp dẫn lực của tất cả các đại lục. Nếu ta kéo dài đường phân giác của mặt đáy thì nó trở thành đường kinh tuyến của Trái Đất, đồng thời nó cũng phân chia Trái Đất thành 2 phần đồng đều nhau: đại dương và lục địa. Nói tóm lại, Kim Tử Tháp là một công trình kiếm trúc thể hiện trình đọ khoa học kỹ thuật tuyệt vời và cực kỳ tinh túy, đấy cũng là kết tinh của trí tuệ phi thường, Các nhà khoa học ngành kiến trúc đến nay vẫn không khỏi bàng hoàng vì họ cho rằng ngày nay dù quy tụ hết mọi kiến trúc sư ưu tú nhất trên thế giới và sử dụng những thiết bị tối tân nhất, chúng ta vẫn khó lòng hoàn thành được một công trình uy nghiêm và thần bí đến vậy.

Part 5 : Lời nguyền 3.000 năm trước


Tháng 2 năm 1923, một đoàn khảo cổ học người Anh đã đến khai quật phần mộ của Pharaon Tuten Khamon, người qua đời cách đây 3.000 năm. đoàn khảo cổ học phát hiện nơi cửa mộ có khắc một câu nguyền: "Ai phá giấc ngủ của Pharaon, người đó sẽ về thiên cổ".


Tượng Tuten Khamon của Ai Cập cổ.

Kannap Sunge là người dẫn đầu đoàn thám hiểm , trước đó ông đã nhận được một bức thư nặc danh, trong thư viết: "Ông Kana Pomsonge, các ông không được vào phần mộ của Tuten Khamon, nếu không nhất định các ông sẽ nhận được mọi hậu quả: lâm bệnh nặng vô phương cứu chữa. Ông Sunge dĩ nhiên không tin; và khi thấy lời nguyền ở cửa mộ, ông cũng chẳng hề e dè, sợ sệt, Thế nhưng, vào một buổi sáng cách ngày khai quật không lâu, ông tỉnh lại trong khách sạn và chỉ thốt được đúng một câu: "Tôi khó chịu quá!"; và đêm đó ông mất trong đau đớn. Theo lời bác sĩ, nguyên nhân gây ra cái chết của ông là do một loại muỗi độc cắn. Và một điều ngẫn nhiên nữa là, vết muỗi cắn trên người ông lại ngẫu nhiên trùng hợp với vết đen trên xác ướp của Pharaon Tuten Khamon.

Kể từ sau sự kiện này, những cái chết kì bí khác không những không chấm dứt hẳn mà ngược lại thần chết lại liên tục gõ cửa nhiều nhà khoa học. Trong số đó có chuyên gia về phóng xạ, ông đã từng chụp X quang cho xác ướp cho xác ướp một Pharaon, kết quả là sau đó ông bị đau đớn khắp người và không bao lâu sau ông qua đời. Ông Richard Peter, một thành viên trong đoàn của ông Sunge, đã qua đời trong phòng ngủ do chứng bệnh gan bộc phát đột ngột. Nhà khoa học người Anh, Grior Woor, là người tham gia trong đọt đầu tiên khám phá các ngôi mộ thất của các Pharaon cũng có cùng chung số phận; ông bị sốt cao và qua đờicasch ngày tìm kiếm không lâu.

Nửa thế kỷ sau, một đài truyền hình đã bí mật phỏng vấn người duy nhất may mắc còn sống sót được trong đoàn ông Sunge - là Richard Adamson, ông cho biết : "Tôi không tin vào những chuyện vớ vẩn này". Thế là khi đang trên đường từ đài truyền hình về nhà, xe ông đâm vào một xe tải, ông bị thương rất nặng.
Part 6 : Di tích của thành phố dưới đáy biển


Năm 1968, khi bay qua vùng không phận quần đảo Bahamas, một nhà khảo cổ đã phát hiện dưới đáy biển có một công trình kiến trúc cổ, sừng sững tưởng chừng như do bàn tay con người tạo nên.

Thật ngẫu nhiên, vùng biển này lại nằm gần vùng tam giác quỉ Bermuda. Theo ước tính, công trình dưới đáy biển này đã có trên mười ngàn năm lịch sủ.

Phát hiện này đã làm rúng động thế giới. Vì nó đã kiểm chứng lời miêu tả của nhà triết học cổ Hy Lạp Paratu là đúng. Trước đây, trong một tác phẩm của mình, ông mô tả rằng đã có một thành phố trên Trái Đất bị biến mất, Ông viết:
Lục địa Đại Tây dương cũng đã tồn tại một nền văn minh phát triển một cách kỳ lạ. Nơi đây đã sản xuất vô số loại vàng, bạc; ngoài ra các bức tường trong chốn cung đình đều lát toàn bằng vàng, mặt sàng thì lót bạc. Hơn thế nữa, ở đây còn có bến cảng cực lớn, có cả các loại máy bay. Chính thành phố này đã từng là vùng đất của nhiều thực dân.

Châu Âu, châu phi và cả vùng Nam - Bắc Mỹ cũng ít nhiều thuộc phạm vi ảnh hưởng của vùng đất văn minh này. Thế nhưng, trong một trận động đất, toàn bộ nền văn minh này bị dìm sâu dưới đáy đại dương. Đúng đấy, đấy chính là "lục địa Atlantic", một thành phố văn minh cổ đại cách chúng ta gần 11.500 năm lịc sử.

Khi công bố tin này, lập tức nhiều nhà khoa học đã quyết định tiến hành tìm hiểu, khảo sát. Sau này nhà sinh vật hải dương học đã phát hiện dưới đáy biển thuộc đảo Wiminian có một cây cột dài độ 10m và cách đây vài ngàn năm sau. Sau khi được hóa nghiệm, người ta cũng không thể kết luận chính xác loại cột này làm bằng vật liệu gì. Trong một báo cáo trên báo Washington (Mỹ) có đoạn viết: Nhà khảo cổ học chuyên ngành hải dương Charles Barriere đã dùng một thiết bị định vị (sonar) để phát hiện tàu ngầm và cuối cùng phát hiện dưới đáy biển thuộc đảo Bahamas có một kim tử tháp cao 180m, đỉnh tháp có kiến trúc như một cung đình.

Có nhiều người đã liên tưởng sự kiện này với hiên tượng kỳ bí thường xảy ra ở vùng tam giác quỷ Bernude. Họ cho rằng nguồn năng lượng do các mảnh vụn của Atlantis vẫn còn có tác dụng, và điều này dẫn đến sự thay đổi của không gian và gây ra những vụ mất tích đầy bí ẩn của tàu bè và máy bay.

Có người phân tích rằng: nguyên nhân thành phố này bị hủy diệt là ở sai lầm chết người do nhân dân Atlantis phạm phải trong quá trình quản lý. Và sử dụng nguồn năng lượng dồi dào của Mặt Trời và vũ trụ. Chính sai lầm này đã dẫn đến sự thay đổi của vỏ Trái Đất làm cho lục địa lấn xuống và kết quả như bạn thấy đấy: thành phố Atlantis hoàn toàn bị dìm sâu xuống biển.

Part 7 : Ẩn số về người Maya


Người Maya còn được biết đến dưới cái tên: "Người da đỏ Trung Mỹ", họ sống vào thế kỷ 4 - 9 TCN. Mức đọ phát triển của họ khiến chúng ta không thể tin rằng trình độ văn hóa thời đó lại cao đến vậy. Họ không những biết được rằng năm sao Kim có 584 ngày, năm Trái Đất có 365.242 ngày; kết quả của họ chính xác đến mức nếu đem so với kết quả mà ta tìm được hiện nay chỉ suýt soát nhau 0,0002 ngày. Ngoài ra họ còn để lại cho chúng ta cách tính thiên văn có giá trị sử dụng đến những 64.000.000 năm. Họ là ai? Sống thời nào? Họ chính là một bộ tộc chỉ khoảng độ 20.000.000 người tập trung ở vùng rừng rậm xa xôi hẻo lánh, thế mà nghiễm nhiên lại sáng lập ra "công thức kim tinh" nổi tiếng: Năm mặt Trăng có 260 ngày, năm Trái Đất có 365 ngày; năm của sao Kim có 548. Những ước số bên trong những con số này còn khiến ta kinh ngạc hơn nhiều: chẳng hạn nếu ta lấy 365 chia cho 73 được 5,584 và lấy số này chia tiếp cho 73, ta được 8. Công thức như sau:

Mặt Trăng: 20 x 13 x 2 x 73 = 260 x 2 x 73 = 37.960
Mặt Trời: 8 x 13 x 5 x 73 = 104 x 5 x 73 = 37.960
Sao Kim: 5 x 13 x 8 x 73 = 65 x 8 x 73 = 37.960

Chu kỳ của tất cả các vì tinh tú là 37960; nghĩa là đến ngày này chúng ta sẽ trùng lại.


Căn cứ vào phát hiện này, người Maya tuyên bố, đến lúc đó "Chư vị thần tiên" sẽ chọn vùng đất này để nghỉ ngơi. Quả thật ở vào thời đại hoang sơ vậy mà người Maya lại có thể sáng tạo ra bộ (21) lại còn xây nhiều kim tử tháp vĩ đại. Những hiểu biết chính xác của họ về sao Thiên Vương và sao Hải Dương khiến chúng ta không khỏi thắc mắc: liệu họ có phải là hậu duệ của người sao Kim không?

Người Maya sùng bái "thần rắn lông vũ", và vị thần này xuất hiện hầu hết ở tất cả các công trình kiến trúc. Họ tin rằng thần rắn lông vũ đến từ một nước có Mặt Trời xuất hiện, thần mặc áo bào trắng, có chò, râu dài. Thần quy định bộ luật cho nhân dân, từ đó nhân dân Maya sống có kỷ cương phép tắc hơn. Thần còn thông hiểu khoa học, nghệ thuật và nhiều phong tục tập quán tốt, đồng thời thần còn giúp nhân dân Maya gieo trồng lương thực và cây bông lấy sợi. Chính nhờ thần mà nhân dân Maya có cơm ăn áo mặc. Sau khi làm nhiều việc giúp đỡ nhân dân Maya, thần ngồi thuyền đến sao Kim trước khi đi, thần có hứa sẽ quay lại. Do đó, người Maya, vô hình trung đã kiến tạo nên nhiều kim tử tháp mang hình thần rắn lông vũ ở Atlantis.

Năm 1935, một nhà khảo cổ học dã phát hiện một mẫu đá đá điêu khắc. Những nhân vật trên phiến đá rất giống một người đang phóng xe máy. Tuy nhiên chiếc xe máy đó hao hao giống hỏa tiễn, vì nó có cửa khoang, phía đuôi còn có lửa phun ra. Bộ trang phục của người cưỡi xe cực kỳ giống bộ quần áo của các phi hành gia ngày nay. Nhân vật trên phiến đá đang hết sức chăm chú nhìn vào những sự vật trước mặt. Nhiều nhà khoa học trên khắp thế giới đều cho rằng đây là một thiết bị bay của người Maya.

Vùng đất của người Maya chọn để sinh sống cũng khiến chúng ta không khỏi thắc mắc. Số là họ xây dựng thành phố ngay trong rừng, xung quanh đều có nguồn nước thiên nhiên thế mà họ lại còn xây dựng những hồ chứa nước khổng lồ. Từ hiện tượng này, nhiều người nghi ngờ và tự hỏi liệu đây có phải là những phương tiện đi lại dành cho thần rắn không?

Bên cạnh đó, người Maya còn có một điểm đáng chú ý nữa, đó là khoảng sau năm 600 TCN, dường như họ không để lại cho đời những công trình nào nữa cả, hơn thế nữa, đột nhiên họ lại rời bỏ thành phố kiên cố mà họ đã tốn nhiều công sức và thời gian mới xây dựng xong; họ từ bỏ cả những di sản văn hóa quý giá và đặt dấu chấm hết cho nền văn hóa Maya huy hoàng. Sự thay đổi quá ư bất ngờ này đã thật sự khiến các nhà khảo cổ học nhức đầu. Họ đưa ra rất nhiều giả thuyết, tựu trưng có 3 ý chính sau:
Một là giả thuyết "bị xâm lược". Nhưng thời đó dân tộc Maya là một dân tộc mạnh không ai sánh bằng, hơn nữa chẳng có một dấu vết nào để chứng minh rằng đã có cuộc chiến xảy ra ở vùng đất này. Giả thuyết thứ hai là "do sự thay đổi khắc nghiệt của khí hậu". Nhưng một lần nữa, không ai tìm thấy được chứng cứ chứng minh rằng vùng đất này bị thiên tai, hỏa hoạn... Giả thuyết thứ ba là "do có dịch bệnh hoành hành", nhưng cũng như hai giả thuyết trên, giả thuyết này không có sức thuyết phục.

Đên niên đại 70 lại xuất hiện giả thuyết mới. Tổ tiên người Maya đã từng gặp mặt "Thần Trời", và thần có hứa nếu dân Maya xây xong kiến trúc theo chu kỳ của lịch thì thần sẽ trở về. Chính lời hứa này mà nhân dân Maya đã xây dựng nhiều đền thờ và kim tử tháp, với ước mong chờ thần rắn lông vũ trở về ngự trị. Nhưng chờ mãi, chờ mãi... họ vẫn không thấy "Thần Trời" xuất hiện. Thất vọng rồi chuyển sang hoài nghi, họ tự hỏi liệu có phải do sai sót trong cách tính lịch năm không? Cuối cùng, trong trạng thái thất vọng và hoang mang, họ quyết định rời bỏ vùng đất ấy, họ đi mãi, đi mãi và cuối cùng dừng chân ở miền Trung Mỹ.


Part 8 : Cuộc đại chiến hạt nhân vô tiền khoáng hậu



Cảnh tượng của một vụ nổ hạt nhân

Sử thi Ấn Độ cổ từng ghi lại hai cuộc chiến ác liệt giữa bộ tộc người Yukarava với Pantarva, và giữa Flischnia với người Hake trên sông Hồng cách đây những 5000 năm. Trong cả hai cuộc chiến ấy, theo sách ghi lại, rằng họ đã dùng đến loại vũ khí "phóng được", " nó phun được lửa lại chẳng hề có khói, vừa phóng hỏa ra thi bầu trời tức thì trở nên đen tối, đất trời đảo lộn, gió bão nổi lên, đất cát như trút từ trên trời xuống, sống vỗ ầm ầm vào bờ; núi non rung động, các loài động vật đềy lăn ra chết, nước sông sôi sùng sục, con người bị bỏng rát . Quả thật sức hủy diệt của loại hỏa tiễn này thật sự ghê gớm, cột lửa to những tưởng gấp ngàn vạn lần Mặt Trời cháy cuồn cuộn thẳng lên trời cao..." Các nhà khoa học cho rằng đây chỉ là một đoạn miêu tả lại cuộc chiến nhưng điều đáng để chúng ta suy nghĩ: đó là loại vũ khí đó do ai phát minh?


Trong đống tro tàn đổ nát ở vùng rừng nguyên thủy người ta phát hiện toàn bộ những bức tường thành và tất cả các dụng cụ bằng đá bên trong các công trình kiến trúc đều bị thủy tinh hóa. Các nhà khoa học nhận định rằng chỉ có các vụ nổ hạt nhân mới có thể tạo ra hiệu quả này.

4 nhận xét:

  1. Nặc danh nói...:

    wow ghe that!

  1. Nặc danh nói...:

    ai rảnh mà chém ác thế

  1. Nặc danh nói...:

    hay that

Đăng nhận xét

Các bạn có thể viết lời bình của mình cho bài viết, và tuân thủ một số quy tắc sau:

» Các bài comment phải nghiêm túc, không dung tục, không spam.
» Nội dung phải liên quan tới chủ đề bài viết.
» Hãy để lại tên của bạn khi bạn post bài comment, để mình có thể dễ dàng trả lời comment của bạn khi cần.
» Có thể sử dụng các thẻ html