1.
Chúng ta có thể kê ra hàng loạt đại từ nhân xưng trong tiếng Việt như :
Tôi, ta, tao, tớ, mày, anh, em, chị, cô, chú, bác, ông, cụ, nó…Nghĩa là
ngoài một số đại từ cơ bản như tôi và anh, mày và tao, thì có vô số đại
từ vốn chỉ thứ bậc và quan hệ huyết thống trong gia đình được đưa tuốt
ra ngoài xã hội.
Đàn bà cãi nhau. Hình trong sách "Kỹ thuật của người An Nam", Henri Oger, xuất bản đầu thế kỷ 20. |
Nhưng
tiếng Hán của người Hán vốn là một dân tộc sinh ra Nho giáo với nhiều
nghi lễ phiền toái, lại chỉ có ba ngôi xưng hô thông dụng : Ủa, Nỉ và
Tha (1,2,3 ).
Tất
nhiên trong chốn quan trường, công sở, thi lễ thì tiếng Hán được dùng
để xưng hô cũng phức tạp bậc nhất, người ta phải tùy từng địa vị, quan
hệ, hoàn cảnh mà ăn nói cho đúng phép – một thứ kính ngữ sâu sắc và lôi
thôi chưa từng có. Khi hai kẻ sỹ gặp nhau, họ nói là Thưa túc hạ (tôi chỉ dám nói với cái chân của ngài), gặp quan trên, bề trên thì Thưa các hạ (tôi chỉ dám nói với cái gác của ngài), gặp hoàng tử, thái tử thì nói Thưa Điện hạ (tôi chỉ dám nói với cung điện của ngài), yết kiến vua thì thưa Tâu Bệ hạ (tôi chỉ dám nói với cái bệ của nhà vua).
Rồi gọi nhau là Đại nhân, Tiên sinh, Thượng quan, Tướng công, Đại phu,
Tráng sỹ, Hiền sỹ, Tướng quân… tức là những chức tước cũng được dùng
thành ngôi thứ hai ba để kính ái nhau. Ngược lại kẻ làm vua lại xưng
khiêm tốn, ví dụ xưng Cô (kẻ cô đơn này), Quả nhân (kẻ cô độc này), trẫm
(kẻ ngu tối này)… kèm theo lối ăn nói văn hoa, khen ngợi, xưng tụng,
tâng bốc. Ví dụ: Nghe
danh ngài như sấm dậy bên tai đã lâu, nay gặp mặt mới thỏa lòng mong
ước/ Tôi gặp ngài khác nào quạ dám sánh với phượng hoàng, ngựa hèn sánh
với kỳ lân/ Đức độ của ngài lan ra bốn bể, khắp hang cùng ngõ hẻm, ai ai
cũng nghển cổ trông ngóng/ Lời của ngài chúng tôi đã phải rửa tai chín
lần để chờ đợi…
Mặc
dù kính ngữ phức tạp như vậy, nhưng trong khi nói chuyện, người ta chỉ
cần thưa tôn kính lần đầu, còn những câu nói sau có thể quay lại Nhĩ –
Ngã như bình thường. Giống như ta nói tiếng Anh : Thưa Tiến sỹ, anh có
khỏe không? Điều này là hoàn toàn khác với tiếng Việt, người ta căn bản
không thay đổi đại từ nhân xưng trong suốt cuộc nói chuyện, hoặc là phải
dùng đại từ tương đương với tuổi tác của người đang nói.
2.
Nghe những người thiểu số nói chuyện, tôi thấy hai ngôi tao, mày duy
nhất cũng được dùng phổ biến, điều này cũng thấy cách đây ba bốn mươi
năm ở các tỉnh từ Thanh Hóa đổ vào trong. Tất nhiên chênh lệch tuổi tác
và có quan hệ họ hàng các ngôi vẫn phức tạp, nhưng quan hệ bình thường,
việc dùng tao, mày và nói là mi với tau là rất phổ biến.
Cha
mẹ nói với con cái, anh em gần tuổi nói với nhau, đàn ông đàn bà cùng
trang lứa… tất cả phổ biến là mi và tau. Đó là ngữ âm cổ của người Việt,
thấy khắp từ Thanh Hóa đến các xứ Quảng. Tôi nghi ngờ rằng vào một thời
xưa nào đó người Việt cũng chỉ dùng phổ biến đại từ nhân xưng đơn giản
tao và mày, rồi vì một lý do nào đó, thời nào đó, cách thức xưng hô thay
đổi theo chiều hướng gia đình hóa cho tới hiện nay.
Chuyên mục do nhà phê bình Phan Cẩm Thượng thực hiện, xuất hiện vào số Chủ nhật hàng tuần.
|
0 nhận xét:
Đăng nhận xét
Các bạn có thể viết lời bình của mình cho bài viết, và tuân thủ một số quy tắc sau:
» Các bài comment phải nghiêm túc, không dung tục, không spam.
» Nội dung phải liên quan tới chủ đề bài viết.
» Hãy để lại tên của bạn khi bạn post bài comment, để mình có thể dễ dàng trả lời comment của bạn khi cần.
» Có thể sử dụng các thẻ html